Thế giới đang phải vật lộn với sự lây lan và các tác động bất lợi của đại dịch Covid-19. Là một quốc gia có quan hệ kinh tế lớn với Trung Quốc, liệu Covid-19 có kìm hãm sự phát triển của Việt Nam hay Việt Nam đang ở một vị trí tốt để có thể trở lại?
“Việt Nam đã theo con đường phát triển truyền thống từng thấy ở nhiều nền kinh tế châu Á phát triển. Đi từ thu nhập thấp, lên đến trung bình, trung bình cao rồi lên đến thu nhập cao. Bắt đầu từ kinh tế nông nghiệp với một lượng lớn lao động dư thừa ở nông thôn. Lao động dư thừa này di chuyển vào khu vực thành thị, từ khu vực không chính thức sang khu vực chính thức. Từ đó, Việt Nam có một lực lượng lao động lớn sẵn sàng làm việc với mức lương thấp, thu hút các công ty trong ngành sản xuất thâm dụng lao động” – ông Simon Baptist, Kinh tế trưởng của The Economist Intelligence Unit giải thích.
“Với dân số trẻ, lực lượng lao động lớn so với các nước khác ở Đông Nam Á, và cơ sở hạ tầng tương đối tốt, Việt Nam đã thực sự nổi lên như một vành đai công nghiệp và công nghiệp phụ trợ hấp dẫn với doanh nghiệp nước ngoài chuyển đến Việt Nam” – ông Samuel Pursch, Phó giám đốc Vriens & Partners đánh giá.
Với dân số khoảng 96 triệu người, GDP đã được cải thiện gần 8%, một phần nhờ quá trình chuyển dịch sản xuất từ cuộc chiến thương mại Trung-Mỹ. Sự gần gũi với Trung Quốc là điều kiện đặc biệt thích hợp cho các công ty muốn chuyển hoạt động sản xuất sang Việt Nam.
Thay vì từ bỏ hoàn toàn Trung Quốc, các nhà đầu tư đang chọn việc bổ sung thêm các cơ sở sản xuất với đầu vào giá rẻ ở Việt Nam, hay còn được gọi là chiến lược Trung Quốc+1.
Nhiều công ty đang phụ thuộc quá nhiều vào chuỗi cung ứng ở Trung Quốc, vì vậy họ mong muốn có thể đa dạng hóa, để nếu có biến cố xảy ra ở Trung Quốc, họ còn có lựa chọn khác. Một phần cũng vì tiền lương ở Trung Quốc đang tăng, nên sẽ rất nhanh thôi, họ sẽ không còn lợi thế chi phí cạnh tranh. Khi đó, Việt Nam sẽ là một trong những nền kinh tế mà nhiều công ty tìm đến nhất, bởi họ có rất nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc. Và trên nhiều khía cạnh, làm ăn ở Việt Nam dễ hơn đối với một công ty nước ngoài.
“Để có thể thực phát triển đến cấp độ tiếp theo, Việt Nam cần phải thực sự ý thức được thực tế là đất nước có thể sẽ cần phải mở cửa hơn nữa. Đổ vốn vào Việt Nam rất dễ, nhưng rút ra thì chưa thực sự dễ dàng. Cần phải chắc chắn rằng nhà đầu tư sẽ có kế hoạch thoát hiểm để thực sự có được các khoản đầu tư tốt hơn. Tôi có thể nói rằng Việt Nam đã học tập khá thành công từ câu chuyện của Trung Quốc” – ông Kelvin Tay, Giám đốc đầu tư tại Singapore của UBS nói thêm.
Sức hấp dẫn của Việt Nam
Ưu điểm của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư được thúc đẩy bởi cả yếu tố sản xuất và thị trường tiêu dùng gần 100 triệu dân. Việt Nam không còn là một nước thu nhập thấp mà đã trở thành một quốc gia có thu nhập nước thu nhập trung bình.
“Khi xem xét dòng vốn FDI, cần lưu ý rằng bạn không thể xây dựng một nhà máy ngay lập tức. Trong 5 năm qua, chúng tôi đã thấy rằng dòng vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất chiếm khoảng 11% mỗi năm, đó vẫn là một con số rất mạnh. Nhìn vào con số đó, tôi cho rằng Việt Nam thực sự là khu vực thu hút FDI số một” – bà Sian Fenner, Cố vấn kinh tế của ICAEW và Trưởng nhóm nghiên cứu kinh tế châu Á – Oxford Economics đánh giá.
Điều quan trọng nhất là nỗ lực tự do hóa thương mại của Việt Nam. Các hiệp định đã thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế trong vài năm qua. Việt Nam đã rất tích cực ký kết hiệp định thương mại song phương với các quốc gia và nền kinh tế trên thế giới. Mới nhất là thỏa thuận thương mại tự do mang tính bước ngoặt với Liên minh Châu Âu.
“EVFTA sẽ mang lại cơ hội thâm nhập vào thị trường lớn với thuế suất thấp. Đó là điều rất tích cực cho Việt Nam. CPTPP cũng sẽ là một sự thúc đẩy lớn cho Việt Nam. Bởi dựa trên nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi cảm thấy rằng Việt Nam thực sự là người hưởng lợi lớn nhất từ CPTPP” – ông Kelvin Tay nói.
Sự trở lại “hậu Covid-19”
“Chắc chắn sẽ có tác động tiêu cực, vì dịch bệnh này tác động rất lớn đến nhập khẩu của Trung Quốc. Và tất nhiên là Trung Quốc xuất khẩu một lượng hàng hóa lớn (chủ yếu là nguyên vật liệu cho sản xuất) sang Việt Nam. Đặc biệt hơn là thông qua du lịch. Khoảng 30% doanh thu du lịch của Việt Nam đến từ Trung Quốc. Doanh thu trong ngành này đã sụp đổ về gần như bằng không chỉ trong vài tuần, và tác động lan sang cả các ngành khác theo cấp số nhân” – ông Kelvin Tay nói.
Ngành sản xuất linh kiện ở Trung Quốc vẫn đang bị đình trệ ở nhiều cấp độ. Các nhà máy Việt Nam dự kiến sẽ cạn kiệt nguồn linh kiện và các bộ phận trong những tuần tới và có thể là tháng tới.
“Vì nhà máy sản xuất linh kiện đã không mở lại hoặc mở cửa trở lại nhưng không thể chạy hết công suất vì thiếu công nhân. Hoặc có thể, họ vẫn chạy hết công suất nhưng hệ thống hậu cần đã bị gián đoạn nghiêm trọng” – ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Amcham cho biết.
“Dữ liệu thương mại cho giai đoạn đầu năm 2020 rất yếu. Thương mại tổng thể ở Việt Nam đã giảm khoảng 12% trong tháng 1/2020 và tôi dự kiến con số tương tự vào tháng 2 và tháng 3. Với giả định rằng Covid-19 được kiểm soát sau đó, chúng ta vẫn sẽ tiếp tục chứng kiến quý 2/2020 tăng trưởng yếu. Có lẽ đến tháng 6 mọi thứ sẽ trở lại bình thường” – ông Simon Baptist cho hay.
Ông Walter Blocker – Chủ tịch kiêm CEO Liên minh Thương mại Việt Nam nói: “Các chuyến hàng của chúng tôi vào Việt Nam đã giảm khoảng 50%, một phần là do kỳ nghỉ Tết, thứ hai là nhiều công đoạn không trôi chảy đang trì hoãn hoạt động sản xuất của nhà máy”.
Liên minh thương mại Việt Nam là một Tập đoàn nắm giữ 9 công ty con hoạt động trong các ngành kinh doanh bao gồm: đồ nội thất, bia và đồ uống, thực phẩm, quảng cáo bảo hiểm và nghiên cứu người tiêu dùng số. Và với nhiều danh mục đầu tư như vậy, tác động của Covid-19 đến họ là rất đa chiều.
Bất chấp tất cả những khó khăn, ông Walter hy vọng rằng Covid-19 có thể chỉ gây ra một trở ngại ngắn cho Việt Nam. Ông tin rằng Việt Nam – đất nước kiên cường chắc chắn sẽ bật trở lại, tận dụng lợi ích của thương chiến.
Thiệt hại trực tiếp đến ngành du lịch ước tính đã lên tới 3-4 tỷ USD. Nhưng Việt Nam thì không hề xa lạ với việc xử lý khủng hoảng y tế. Năm 2003, ở đỉnh điểm của dịch SARS, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát căn bệnh này. Tổ chức y tế tuyên bố Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong số các quốc gia nhiễm đã loại bỏ thành công SARS.
“Việt Nam đã cho thấy sự quyết liệt ngay từ thời điểm đó. Ngay khi có ca nhiễm SARS trong bệnh viện, họ đã tiến hành phong tỏa, ngăn không cho bất cứ ai ra vào. Nếu bạn đọc báo cáo, các nhân viên y tế và bệnh nhân họ rất đau lòng về những gì đã xảy ra. Nhưng họ đã rất quyết đoán và đưa ra những quyết định khó khăn để ngăn chặn SARS” – Giáo sư Hsu Li Yang của Trường Y tế công cộng Đại học Quốc gia Singapore nói.
Nhưng bản chất của Covid-19 là khác với SARS và tác động đến nền kinh tế toàn cầu có thể nghiêm trọng hơn với hàng trăm quốc gia bị ảnh hưởng. Đóng cửa nhà máy đang phá vỡ chuỗi cung ứng và chặn nguồn cung linh kiện của Việt Nam.
“Việt Nam là một trong số những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, Top 5 năm 2018, Top 5 năm 2019, chưa chắc sẽ lọt vào Top 5 năm 2020 do tác động của Covid-19 nhưng vẫn có nằm trong Top 10. Tại EIU chúng tôi đã dự báo tăng trưởng ở Việt Nam là khoảng 6,4% trung bình trong 5 năm tới. Đầu năm 2020, chúng tôi đã mong đợi nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,9%, có lẽ bây giờ sẽ được sửa đổi giảm xuống khoảng 6,2%, song đó vẫn là một tốc độ tăng trưởng rất cao trong bối cảnh toàn cầu” – ông Simon Baptist khẳng định.
“Chúng tôi cho rằng Covid-19 sẽ có tác động lớn trong qúy 1, nó sẽ tương tự như SARS, sẽ là tác động ngắn hạn. Chúng tôi đang dự báo phần lớn tác động trong quý 1 sẽ phản ánh cả du lịch suy yếu do các biện pháp hạn chế và giảm khách du lịch Trung Quốc, cũng như một số sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu hiện nay. Chúng tôi thực sự mong đợi rằng sang qúy 2, chúng ta có thể bắt đầu bình thường hóa hoạt động sản xuất” – bà Sian Fenner chia sẻ.
“Tôi nghĩ rằng rất nhiều doanh nghiệp rời Trung Quốc sẽ không trở lại. Covid-19 không phải là lỗi của doanh nghiệp Trung Quốc, nhưng nó chắc chắn đã củng cố quyết định của nhiều công ty, vốn đã biết việc phụ thuộc quá nhiều vào một quốc gia cho chuỗi cung ứng hoặc kế hoạch kinh doanh là rất rủi ro. Covid-19 đã cho các công ty thêm một lý do để cảm thấy rằng họ nên ở một nơi như Việt Nam. Và như vậy, tôi nghĩ rằng đó là một xu hướng dài hạn mà chúng ta sẽ thấy tiếp tục chứng kiến”- ông Adam Sitkoff nhận định.